Ngày 04/ 01/ 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm theo hình thức “số hóa hồ sơ vụ án” và trình chiếu tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh. Vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn ông Trần Văn Đ với bị đơn bà Võ Kim L.
Đại diện nguyên đơn trình bày và yêu cầu: Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 263/17, Quyển số 1/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 23/3/2017 của Văn phòng Công chứng Thiệu Ngọc Tuyết. Hủy phần chỉnh lý tại Mục IV của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 814259 về việc chuyển nhượng cho bà L vào ngày 29/3/2017.
Hủy hợp đồng thế chấp số 17.078.030/AT/HĐTC ngày 12/6/2017 giữa bà L với Ngân hàng TMCP. Ông Đ trả lại cho bà L 55.000.000 đồng tiền ứng từ bà L và tiền lãi theo quy định pháp luật. Vì ông Đ cho rằng ông không có ký chuyển nhượng cho bà L, ông chỉ nhờ bà L vay tiền.
Bị đơn bà L trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của ngân hàng. Khi hủy hợp đồng chuyển nhượng thì ông Đ phải có trách nhiệm trả lại cho bà L số tiền 155.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi suất 1%/tháng kể từ ngày 14/4/2017.
Người có nghĩa vụ liên quan Ngân hàng trình bày: Yêu cầu bà Võ Kim L trả toàn bộ nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Trường hợp bà L không trả được nợ đề nghị phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Đối với yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp của ông Đ phía ngân hàng không đồng ý với lý do trình tự thủ tục vay tiền, việc đăng ký thế chấp tài sản đảm bảo đều thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai: Căn cứ kết luận giám định số 106/KL-KTHS-TL ngày 31/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: Chữ ký mang tên Trần Văn Đ, chữ ký mang tên Trần Thị G không phải do cùng một người ký ra; chữ viết mang họ tên Trần Văn Đ, chữ viết mang họ tên Trần Thị G không phải do cùng một người viết ra. Bị đơn bà Võ Kim L cũng thừa nhận giữa bà và ông Đ, bà G chỉ là hợp đồng vay tiền và bà L cũng đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng. Như vậy, có thể xác định đây là hợp đồng vay tài sản, không phải hợp đồng chuyển nhượng thật sự.
Bị đơn cho rằng đã giao cho nguyên đơn 155.000.000 đồng nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh. Nguyên đơn chỉ thừa nhận có nhận của bị đơn số tiền 55.000.000 đồng và tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý trả cho bị đơn lãi theo quy định pháp luật nên chỉ có cơ sở buộc nguyên đơn trả cho bị đơn số tiền 55.000.000 đồng và lãi suất theo quy định.
Đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ngân hàng thì như đã phân tích trên, hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đ, bà G với bà L vô hiệu nên hợp đồng thế chấp cũng vô hiệu, do đó chỉ có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ngân hàng, buộc bà L trã tiền vay và lãi cho Ngân hàng, không chấp nhận yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp.
Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ngân hàng.